Đánh giá và định lượng Xu_hướng_tính_dục

Các định nghĩa đa dạng và các chuẩn mực xã hội nặng nề về tính dục có thể khiến cho xu hướng tính dục khó để định lượng.

Những sơ đồ phân loại đầu tiên

Một trong những bản phân loại xu hướng tính dục đầu tiên được đề xuất bởi Karl Heinrich Ulrichs trong một loạt sách nhỏ phát hành nội bộ vào những năm 1860.[75] Bản phân loại này chỉ được dùng để miêu tả nam giới, chia họ thành 3 nhóm cơ bản: dionings, urnings, và uranodionings. Urning còn có thể được phân loại thêm dựa trên mức độ yểu điệu. Những phân loại trên có liên hệ trực tiếp tới những xu hướng tính dục được sử dụng hiện nay: dị tính, đồng tính và song tính. Trong loạt sách nhỏ trên, Ulrichs đã nêu ra một bộ câu hỏi để xác định xem một người nam có phải là urning hay không. Các định nghĩa cho từng danh mục trong bảng phân loại của Ulrichs như sau:

  • Dioning – Tương đương với thuật ngữ “dị tính” ngày nay
  • Urning – Tương đương với thuật ngữ “đồng tính” ngày nay
Mannling – Một người urning nam tínhWeibling – Một người urning nữ tínhZwischen – Một người urning vừa nam tính vừa nữ tínhVirilised – Một người urning có hành vi tình dục giống như một người dioning
  • Urano-Dioning – Tương đương với thuật ngữ “song tính” ngày nay

Ít nhất là cho đến cuối thế kỉ 19 ở châu Âu, vẫn có những suy đoán cho rằng phạm vi phản ứng tình dục của con người giống như là một continum hơn là hai hoặc ba phân loại riêng biệt. Năm 1896, Magnus Hirschfeld - nhà tình dục học người Berlin đã công bố một sơ đồ đo mức độ ham muốn tình dục của một cá nhân trên hai thang điểm 10 độc lập, A (đồng tính) và B (dị tính).[76] Một cá nhân dị tính có thể là A0, B5; một cá nhân đồng tính có thể là A5, B0; một người vô tính sẽ là A0, B0; và những người hấp dẫn với hai giới tính sẽ là A9, B9.

Thang Kinsey

Thang Kinsey, hay còn được gọi là Thang Xếp Hạng Dị Tính - Đồng Tính được công bố lần đầu trong cuốn Sexual Behavior in the Human Male (Hành Vi Tình Dục Ở Nam Giới) (1948) của Alfred Kinsey, Wardell PomeroyClyde Martin, đồng thời cũng xuất hiện trong cuốn Sexual Behavior in the Human Female (Hành Vi Tình Dục Ở Nữ Giới) (1953).[77] Thang này được phát triển để chống lại một giả thiết vào thời điểm đó rằng một người chỉ có thể là dị tính hoặc đồng tính và hai loại trên đại diện cho sự đối lập trong thế giới tình dục.[78] Nhận ra rằng một phần đáng kể dân số không hoàn toàn dị tính hay đồng tính và những người như vậy có thể trải nghiệm cả hành vi và phản ứng tâm lý dị tính và đồng tính, Kinsey và cộng sự phát biểu:

Nam giới không đại diện cho hai phần dân số riêng biệt: đồng tính và dị tính. Thế giới cũng không được chia thành cừu và dê. Không phải tất cả mọi thứ đều chỉ có thể trắng hoặc đen... Thế giới sinh vật là một continum trong mỗi một khía cạnh của nó. Chúng ta càng sớm học được điều này khi nói đến hành vi tình dục của con người, thì ta càng sớm có được sự hiểu biết sâu sắc về thực tế của tình dục.

— Kinsey và cộng sự. (1948) tr.639.

Thang Kinsey cung cấp bản phân loại xu hướng tính dục dựa trên số lượng tương đối những trải nghiệm hoặc phản ứng tâm lý dị tính và đồng tính của một người tại thời điểm nhất định.[79] Bản phân loại hoạt động sao cho các cá nhân trong cùng một mục thể hiện sự cân bằng giống nhau giữa các yếu tố dị tính và đồng tính trong quá khứ của họ. Các mức trên thang đo được dựa trên quan hệ giữa đồng tính và dị tính trong quá khứ của một người chứ không phải dựa trên số liệu thực tế của trải nghiệm công khai hay phản ứng tâm lý của họ. Một cá nhân có thể được xếp vào một vị trí trên thang tùy theo các định nghĩa sau đây về điểm của thang:[80]

Xếp hạngMô tả
0Hoàn toàn dị tính. Các cá nhân không tiếp xúc cơ thể dẫn đến hưng phấn về tình dục hoặc cực khoái và cũng không có phản ứng tâm lý đối với các cá nhân cùng giới tính với họ.
1Chủ yếu dị tính/tình cờ đồng tính. Các cá nhân chỉ có những tiếp xúc đồng tính ngẫu nhiên bao gồm phản ứng về mặt vật lý hay tâm lý hoặc tình cờ có phản ứng tâm lý mà không có tiếp xúc vật lý.
2Đa phần dị tính/một phần đồng tính. Cá nhân có những trải nghiệm đồng tính trên mức ngẫu nhiên hoặc có phản ứng rõ ràng với kích thích đồng tính.
3Dị tính/ đồng tính cân bằng. Cá nhân có những trải nghiệm hoặc phản ứng tâm lý cân bằng giữa dị tính và đồng tính.
4Đa phần đồng tính, một phần dị tính.Cá nhân có nhiều hơn những hoạt động hoặc phản ứng tâm lý với đồng tính trong khi vẫn duy trì một số lượng hợp lý các hoạt động dị tính hoặc có phản ứng rõ ràng khi tiếp xúc dị tính.
5Chủ yếu đồng tính/ chỉ tình cờ dị tính. Cá nhân gần như hoàn toàn đồng tính trong các hành vi cũng như phản ứng.
6Hoàn toàn đồng tính. Cá nhân hoàn toàn đồng tính, được ghi nhận trong cả các trải nghiệm công khai cũng như các phản ứng tâm lý của họ.

Thang Kinsey được ca ngợi vì đã bác bỏ phân loại nhị phân của xu hướng tính dục và mở ra cái nhìn mới đối với tính dục của con người. Mặc dù bảy mục phân loại đã cung cấp một mô tả chính xác hơn về xu hướng tính dục so với thang nhị phân, vẫn còn tồn tại khó khăn trong việc xác định các cá nhân nên thuộc danh mục nào. Trong một nghiên cứu lớn so sánh phản ứng tình dục giữa người đồng tính nam và đồng tính nữ, Masters và Johnson thảo luận về khó khăn khi xếp những người tham gia vào thang Kinsey.[81] Đặc biệt, họ phát hiện ra những khó khăn trong việc xác định số lượng tương đối các trải nghiệm và phản ứng dị tính và đồng tính trong quá khứ của một người khi sử dụng thang. Họ báo cáo rằng rất khó để ấn định xếp hạng 2-4 cho các cá nhân có nhiều trải nghiệm dị tính và đồng tính. Khi một người có quá khứ gồm một số lượng đáng kể trải nghiệm dị tính và đồng tính, sẽ rất khó để cá nhân đó có thể hoàn toàn khách quan trong việc đánh giá số lượng tương đối của mỗi phần.

Weinrich cùng cộng sự (1993) và Weinberg cùng cộng sự (1994) đã chỉ trích thang đo vì gộp những cá nhân khác nhau dựa trên các khía cạnh khác nhau của tính dục vào chung một phân loại.[82][83] Khi thực hiện thang đo, Kinsey xem xét hai khía cạnh của xu hướng tính dục: trải nghiệm tình dục công khai và phản ứng tâm lý tính dục. Những thông tin có giá trị bị mất khi thu gọn hai giá trị vào trong một điểm cuối cùng. Người chỉ có chủ yếu phản ứng đồng giới khác với người tương đối ít phản ứng nhưng lại có nhiều trải nghiệm đồng giới. Sẽ khá đơn giản nếu Kinsey xét hai khía cạnh một cách riêng biệt và báo cáo điểm một cách độc lập để tránh mất thông tin. Hơn thế nữa, có nhiều hơn hai khía cạnh của tính dục để đánh giá. Ngoài hành vi và phản ứng, người ta cũng có thể đánh giá sự thu hút, bản dạng, lối sống,.. Điều này được giải quyết bởi Lưới Xu Hướng Tính Dục Klein.

Vấn đề thứ ba của thang Kinsey là vì nó cho rằng mức độ dị tính và đồng tính là thông số trên cùng một thang đo khiến cho đồng tính trở thành sự đánh đổi của dị tính và ngược lại (ví dụ mức độ dị tính càng cao thì mức độ đồng tính càng thấp).[84] Nghiên cứu năm 1970 về tính nam và tính nữ cho thấy các khái niệm về nam tính và nữ tính được đo lường một cách thích hợp hơn bằng các khái niệm độc lập trên thang đo riêng biệt hơn là một continum với mỗi đầu đại diện cho các thái cực đối lập.[85] Khi so sánh trên cùng một thang đo, chúng như một thể cân bằng đối lập, theo đó để trở nên nữ tính hơn thì người ta phải ít nam tính hơn và ngược lại. Tuy nhiên, nếu chúng được coi là khía cạnh riêng biệt, một người có thể đồng thời rất nam tính và rất nữ tính. Tương tự, đánh giá dị tính và đồng tính trên thang đo riêng biệt cho phép một người có thể vừa rất đồng tính và vừa rất dị tính hoặc không cái nào quá nhiều. Khi chúng được đo độc lập, độ đồng tính và dị tính có thể được xác định độc lập hơn là sự cân bằng giữa dị tính và đồng tính như khi xác định bằng Thang Kinsey.[86]

Lưới Xu Hướng Tính Dục Klein

Để đáp lại những lời chỉ trích về việc thang Kinsey chỉ đo hai khía cạnh của xu hướng tính dục, Fritz Klein đã phát triển lưới xu hướng tính dục Klein (KSOG), một thang đo đa chiều để mô tả xu hướng tính dục. Được giới thiệu trong cuốn sách The Bisexual Option (1978) của Klein, KSOG sử dụng thang điểm 7 để đánh giá bảy khía cạnh khác nhau của tính dục tại ba thời điểm khác nhau trong cuộc đời của một cá nhân: quá khứ (từ đầu tuổi vị thành niên đến một năm trước), hiện tại (trong 12 tháng qua), và lý tưởng (bạn sẽ chọn gì nếu đó hoàn toàn là lựa chọn của bạn).[87][88][89][90]

Hệ thống đánh giá Xu hướng Tính dục Sell

Hệ Thống Đánh Giá Xu Hướng Tính Dục SellS (SASO) được phát triển để giải quyết các vấn đề quan trọng đối với Thang đo Kinsey và Lưới Xu Hướng Tính Dục Klein. Từ đó đo xu hướng tính dục trên một continum, xem xét các khía cạnh khác nhau của xu hướng tính dục và đánh giá mức độ đồng tính luyến ái và dị tính luyến ái riêng biệt cho mỗi cá nhân. Thay vì đưa ra giải pháp cuối cùng cho câu hỏi làm thế nào để đo xu hướng tính dục một cách tốt nhất, SASO có mục đích khuyến khích thảo luận và tranh luận về các phép đo xu hướng tính dục.[84]

SASO bao gồm 12 câu hỏi. Sáu trong số đó đánh giá sự hấp dẫn về mặt tình dục, bốn câu đánh giá hành vi tình dục và hai câu đánh giá bản dạng xu hướng tính dục. Đối với mỗi câu hỏi trong thang đo mức độ đồng tính thì sẽ có một câu hỏi tương ứng đo mức độ dị tính hình thành sáu cặp câu hỏi. Tổng hợp tất cả lại với nhau, sáu cặp câu hỏi và các câu trả lời cung cấp sơ lược về xu hướng tính dục của một cá nhân. Tuy nhiên, các kết quả có thể được đơn giản hóa thành bốn bản tóm tắt chỉ dựa trên các câu trả lời tương ứng với đồng tính luyến ái, dị tính luyến ái, song tính luyến ái hoặc vô tính luyến ái.[91]

Trong số tất cả các câu hỏi trên thang điểm, Sell coi những câu hỏi đánh giá sự hấp dẫn tình dục là quan trọng nhất vì hấp dẫn tình dục phản ánh rõ khái niệm xu hướng tính dục hơn so với bản dạng tính dục hoặc hành vi tình dục. Sell định nghĩa xu hướng tính dục là "mức độ bị hấp dẫn về mặt tình dục đối với những người khác giới tính, đồng giới, cả hai giới hoặc không giới nào”. Bản dạng và hành vi được đo lường như những thông tin bổ sung vì chúng đều gắn chặt với sự hấp dẫn tình dục và xu hướng tính dục. Chưa có chỉ trích nghiêm trọng nào đối với hệ thống đánh giá này, nhưng độ tin cậy và hiệu lực của nó phần lớn vẫn chưa được kiểm chứng.[91]

Khó khăn khi đánh giá

Nghiên cứu tập trung vào xu hướng tính dục sử dụng các thang đánh giá để xác định một người thuộc nhóm tính dục nào. Người ta cho rằng những thang đo này có thể xác định và phân loại một cách đáng tin cậy mọi người theo xu hướng tính dục của họ. Tuy nhiên, rất khó để xác định xu hướng tính dục của một cá nhân thông qua các thang đánh giá do sự mơ hồ về định nghĩa xu hướng tính dục. Nói chung, có ba yếu tố của xu hướng tính dục được sử dụng trong đánh giá. Họ sử dụng các định nghĩa và ví dụ để đánh giá như sau:

Thành phầnĐịnh nghĩaCâu hỏi
Hấp dẫn tình dụcSự hấp dẫn đối với với một giới tính hoặc ham muốn có quan hệ tình dục hoặc ở trong một mối quan hệ chủ yếu dựa trên tình cảm, hoặc tình dục với một hoặc hai giới tính."Bạn đã bao giờ bị hấp dẫn về mặt tình cảm với nam giới?"

"Bạn đã bao giờ bị hấp dẫn về mặt tình cảm với nữ giới?"[92]

Hành vi tình dục"Bất kì hành động tự nguyện nào liên quan đến tiếp xúc bộ phận sinh dục và sự phấn khích hoặc hưng phấn tình dục, tức là cảm giác thực sự bị kích thích, ngay cả khi giao hợp hoặc cực khoái không xảy ra"[93]"Bạn đã bao giờ có một mối quan hệ với ai đó cùng giới tính với mình mà dẫn đến cực khoái tình dục?"[94]
Bản dạng tính dụcLựa chọn cá nhân, các nhãn dán ràng buộc về mặt xã hội và lịch sử gắn liền với nhận thức và ý nghĩa về bản dạng tính dục mà một cá nhân có."Chọn từ sáu lựa chọn sau: đồng tính nam hay đồng tính nữ; song tính nhưng phần lớn đồng tính luyến ái; song tính cân bằng giữa đồng tính luyến ái và dị tính luyến ái ; song tính nhưng phần lớn là dị tính luyến ái; dị tính; và không chắc chắn, không biết chắc chắn."[95]

Mặc dù hấp dẫn tình dục, hành vi tình dục và bản dạng tính dục đều là các yếu tố của xu hướng tính dục, nếu một người được xác định bởi một trong những khía cạnh trên nhưng lại có điểm tương đồng với người được xác định bởi khía cạnh khác thì không quan trọng khía cạnh nào được sử dụng để đánh giá xu hướng. “Hầu như không có mối liên kết chặt chẽ nào giữa số lượng và sự kết hợp của hành vi đồng tính và dị tính trong tiểu sử của một người với việc người đó lựa chọn tự dán nhãn mình là song tính, đồng tính hoặc dị tính".[96] Các cá nhân thường trải nghiệm những hấp dẫn và hành vi đa dạng có thể phản ánh sự tò mò, thử trải nghiệm, áp lực xã hội và không nhất thiết là dấu hiệu của xu hướng tính dục tiềm ẩn. Ví dụ, một người phụ nữ có thể có những mơ tưởng hoặc ý nghĩ về việc quan hệ tình dục với một người phụ nữ khác nhưng không bao giờ thực hiện chúng và chỉ quan hệ với người khác giới. Nếu xu hướng tính dục được đánh giá dựa trên hấp dẫn tình dục của một người thì cá nhân trên sẽ được coi là đồng tính, dù hành vi của cô ấy lại thể hiện sự dị tính.

Vì không có nghiên cứu nào chỉ ra thành phần nào trong ba thành phần trên cần thiết trong việc xác định xu hướng tính dục, cả ba thành phần này đều được sử dụng độc lập và đưa ra các kết luận khác nhau về xu hướng tính dục. Savin Williams (2006) thảo luận về vấn đề này và lưu ý rằng bằng cách dựa trên một thành phần để phát hiện xu hướng tính dục, các nhà nghiên cứu có thể không thực sự nắm bắt được phần dân số được hướng tới. Ví dụ: nếu đồng tính luyến ái được định nghĩa bởi hành vi đồng giới thì những người đồng tính trinh trắng sẽ bị bỏ qua, những người dị tính thực hiện hành vi đồng tính vì lý do khác thay vì hưng phấn tình dục sẽ bị tính nhầm, và những người bị hấp dẫn bởi người đồng giới nhưng chỉ có quan hệ với người khác giới sẽ bị loại trừ.[97] Do số lượng người hạn chế mà mỗi thành phần thống kê được, người sử dụng nghiên cứu nên thận trọng trong việc khái quát hóa những phát hiện này.

Một trong những cách sử dụng thang đo đánh giá xu hướng tính dục là xác định mức độ phổ biến của các xu hướng tính dục khác nhau trong một quần thể. Tùy thuộc vào độ tuổi, văn hóa và giới tính của đối tượng, tỷ lệ phổ biến của đồng tính luyến ái sẽ khác nhau tùy theo việc thành phần nào của xu hướng tính dục đang được đánh giá: hấp dẫn tình dục, hành vi tình dục hoặc bản dạng tính dục. Đánh giá hấp dẫn tình dục sẽ mang lại tỷ lệ đồng tính luyến ái cao nhất trong một quần thể, theo đó tỷ lệ cá nhân cho biết họ là người bị thu hút bởi người cùng giới lớn hơn từ hai đến ba lần so với tỷ lệ báo cáo hành vi đồng tính hoặc xác định là đồng tính nam, đồng tính nữ hoặc song tính. Hơn nữa, các báo cáo về hành vi đồng tính thường vượt quá các báo cáo về nhận dạng đồng tính nam, đồng tính nữ hoặc song tính.[98] Biểu đồ sau đây cho thấy mức độ phổ biến của đồng tính luyến ái có thể khác nhau tùy thuộc vào độ tuổi, vị trí và thành phần của xu hướng tính dục đang được đánh giá:

Độ phổ biến đồng tính luyến ái
Hấp dẫnHành viBản dạng
Cuốc gia: Nhóm tuổiNữ giớiNam giớiNữ giớiNam giớiNữ giớiNam giới
Hoa Kì: Thiếu niên[99] 6%3%11%5%8%3%
Hoa Kì: Thanh niên[100] 13%5%4%3%4%3%
Hoa Kì: Người trưởng thành[101] 8%8%4%9%1%2%
Úc: Người trưởng thành[102]17%15%8%16%4%7%
Thổ Nhĩ Kì: Thanh niên[103]7%6%4%5%2%2%
Na Uy: Thanh Niên[104]21%9%7%6%5%5%

Sự khác biệt về mức độ phổ biến được phản ánh trong phản ứng không nhất quán của một người đối với các thành phần khác nhau của xu hướng tính dục trong cùng một nghiên cứu và sự bất ổn định trong phản ứng của họ theo thời gian. Laumann và cộng sự (1994) phát hiện ra rằng trong số những người trưởng thành đồng tính ở Hoa Kỳ, 20% số người được đánh giá là đồng tính theo một thành phần của xu hướng tính dục thì cũng đồng tính ở hai khía cạnh còn lại và 70% số người chỉ có phản ứng phù hợp với một trong ba khía cạnh của đồng tính luyến ái.[105] Hơn nữa, tính dục có thể linh hoạt; ví dụ, bản dạng xu hướng tính dục của một người không nhất thiết ổn định hoặc nhất quán theo thời gian mà có thể thay đổi trong suốt cuộc đời. Diamond (2003) phát hiện ra rằng trong hơn 7 năm, 2/3 phụ nữ thay đổi bản dạng tính dục của họ ít nhất một lần với nhiều báo cáo rằng nhãn dán này không đủ để nắm bắt sự đa dạng của cảm xúc tình dục hoặc tình cảm của họ. Hơn nữa, có những phụ nữ từ bỏ nhãn dán song tính và đồng tính nữ nhưng không từ bỏ tình dục đồng giới và thừa nhận khả năng có những hấp dẫn hoặc hành vi đồng tính trong tương lai. Một phụ nữ chia sẻ rằng “Tôi phần lớn là thẳng nhưng tôi là kiểu người mà khi hoàn cảnh thích hợp xảy đến, nó sẽ thay đổi quan điểm của tôi”.[106] Do đó, các cá nhân được phân loại là đồng tính trong một nghiên cứu có thể không được xác định giống như vậy trong một nghiên cứu khác tùy thuộc vào thành phần nào được đánh giá và thời gian mà đánh giá được thực hiện, gây khó khăn cho việc xác định ai là đồng tính và ai không cũng như tỷ lệ chung trong một số lượng người.[1]

Kết luận

Tùy thuộc vào thành phần nào của xu hướng tình dục được đánh giá và tham khảo, ta có thể rút ra các kết luận khác nhau về tầm quan trọng của tỷ lệ phổ biến đồng tính luyến ái trong thế giới thực. Việc biết được bao nhiêu phần trăm dân số được tạo thành từ các cá nhân đồng tính luyến ái ảnh hưởng đến cách quần thể này được công chúng và các cơ quan chính phủ nhìn nhận hoặc đối xử. Ví dụ, nếu các cá nhân đồng tính luyến ái chỉ chiếm 1% dân số nói chung, họ sẽ dễ bị bỏ qua về mặt chính trị hơn so với khi họ chiếm một phần phiếu bầu lớn hơn hầu hết các dân tộc và nhóm thiểu số. Nếu số lượng tương đối nhỏ thì rất khó để thuyết phục cộng đồng về các chương trình và dịch vụ dành cho người đồng tính, các phương tiện thông tin đại chúng đưa các hình mẫu về người đồng tính hoặc Liên minh Đồng tính/ Thẳng trong trường học. Vì lý do này, vào những năm 1970 Bruce Voeller, chủ tịch Lực lượng Đặc nhiệm Quốc gia về Đồng tính nam và Đồng tính nữ (National Gay and Lesbian Task Force) duy trì một niềm tin chung phổ biến nhưng thiếu chính xác, rằng tỷ lệ đồng tính luyến ái là 10% trên toàn dân số, tính trung bình là 13% đối với nam và 7% đối với nữ. Voeller đã khái quát hóa phát hiện này và sử dụng nó như một phần của phong trào bảo vệ quyền của người đồng tính hiện đại để thuyết phục các chính trị gia và công chúng rằng "chúng tôi [đồng tính nam và đồng tính nữ] ở khắp mọi nơi".[107]

Giải pháp được đề xuất

Trong bài báo "Ai đồng tính? Điều đó có quan trọng không?" ("Who's Gay? Does It Matter?"), Nhà tâm lý học Ritch Savin-Williams đề xuất hai cách tiếp cận khác nhau để đánh giá xu hướng tính dục cho đến khi phát triển được các định nghĩa được xác định đúng, chính xác về tâm trắc học và đã được kiểm chứng, cho phép nghiên cứu xác định một cách đáng tin cậy tỷ lệ, nguyên nhân và hậu quả của đồng tính luyến ái.[97]Đầu tiên, ông đề xuất nên dành nhiều ưu tiên cho sự kích thích và hấp dẫn tình dục hơn là hành vi và bản dạng bởi vì nó ít có xu hướng bị đánh lừa bởi bản thân hoặc các nhân tố khác, các điều kiện xã hội và ý nghĩa biến đổi. Để đo lường sự hấp dẫn và sự hưng phấn, ông đề xuất rằng các biện pháp sinh học nên được phát triển và sử dụng. Có rất nhiều biện pháp sinh học / sinh lý học tồn tại có thể đo lường xu hướng tình dục như hưng phấn tình dục, quét não, theo dõi mắt, sở thích mùi cơ thể và các biến thể giải phẫu như tỷ lệ chiều dài ngón tay và tay thuận. Thứ hai, Savin-Williams gợi ý rằng các nhà nghiên cứu nên từ bỏ hoàn toàn khái niệm chung về xu hướng tính dục và chỉ đánh giá những thành phần có liên quan đến câu hỏi nghiên cứu đang được điều tra. Lấy ví dụ:Để đánh giá sự lây nhiễm STDs hay HIV, hãy đo lường hành vi tình dụcĐể đánh giá sự gắn bó giữa các cá nhân, hãy đo lường sự hấp dẫn tình dục/tình cảmĐể đánh giá hệ tư tưởng chính trị (political ideology), hãy đo lường bản dạng tính dục.

Phương tiện đánh giá

Các phương tiện thường được sử dụng bao gồm khảo sát, phỏng vấn, nghiên cứu đa văn hóa, phép đo kích thích thể chất hành vi tình dục,[108] tưởng tượng tình dục hoặc hình mẫu kích dục.[109] Phổ biến nhất là tự báo cáo bằng lời nói hoặc tự dán nhãn[108][109], phụ thuộc vào việc cá nhân trả lời có chính xác về họ hay không.[108]

Hưng phấn tình dục

Nghiên cứu về hưng phấn tình dục của con người đã chứng minh thành công cách để hiểu nam giới và nữ giới khác nhau như thế nào về giới tính và về xu hướng tính dục. Một phép đo lâm sàng có thể sử dụng hình ảnh chụp quang tuyến dương vật hoặc âm đạo, trong đó độ căng bởi dồn máu ở bộ phận sinh dục được đo trong trạng thái phản ứng khi tiếp xúc với các tài liệu khiêu dâm khác nhau.[109]Một số nhà nghiên cứu về xu hướng tính dục cho rằng khái niệm này có thể không áp dụng được một cách giống nhau cho cả nam và nữ. Một nghiên cứu về các khuôn mẫu hưng phấn tình dục[110] cho thấy rằng phụ nữ, khác với nam giới, khi xem phim khiêu dâm có hoạt động tình dục nữ-nữ, nam-nam và nam-nữ (quan hệ tình dục bằng miệng hoặc thâm nhập (penetration) thường thể hiện những kiểu hưng phấn không khớp với xu hướng tính dục mà họ tự gắn nhãn. Điều đó có nghĩa, hưng phấn tình dục ở phụ nữ dị tính và đồng tính đối với phim khiêu dâm không khác biệt đáng kể theo giới tính của những người tham gia (nam hoặc nữ) hoặc theo loại hoạt động tình dục (dị tính hoặc đồng tính luyến ái). Ngược lại, các dạng hưng phấn tình dục của nam giới có xu hướng phù hợp hơn với xu hướng tính dục tự nhận của họ, những người đàn ông dị tính thể hiện kích thích dương vật nhiều hơn đối với hoạt động tình dục nữ-nữ và ít kích thích hơn đối với kích thích tình dục nữ-nam và nam-nam; nam giới đồng tính và song tính bị kích thích nhiều hơn bởi các bộ phim mô tả giao hợp nam-nam và ít bị kích thích hơn bởi các kích thích khác.

Một nghiên cứu khác về mô hình kích thích tình dục của nam giới và nữ giới đã xác nhận[111] rằng nam giới và nữ giới có các khuôn kích thích tình dục khác nhau, không phụ thuộc vào xu hướng tính dục của họ. Nghiên cứu cho thấy bộ phận sinh dục của phụ nữ bị kích thích bởi cả con người và không phải con người (nonhuman) từ các bộ phim quay con người ở cả hai giới quan hệ tình dục (dị tính và đồng tính) và từ các video quay lại động vật linh trưởng không phải người (bonobo) quan hệ tình dục. Nam giới không thể hiện bất kỳ kích thích tình dục nào đối với các kích thích thị giác không phải của con người, các kiểu kích thích của họ phù hợp với sở thích tình dục cụ thể của họ (phụ nữ đối với nam giới dị tính và nam giới đối với nam giới đồng tính).

Những nghiên cứu này cho thấy sự khác nhau giữa nam giới và nữ giới về kiểu kích thích tình dục và điều này cũng được phản ánh qua cách bộ phận sinh dục của họ phản ứng với các kích thích tình dục của cả hai giới hoặc thậm chí với các kích thích không phải của con người. Xu hướng tính dục có nhiều khía cạnh (hấp dẫn, hành vi, bản dạng), trong đó hiện nay kích thích tình dục là sản phẩm duy nhất của sự hấp dẫn tình dục có thể đo lường được bằng một số thang phân độ chính xác về thể chất. Do đó, sự thật là phụ nữ bị kích thích khi nhìn thấy các loài linh trưởng không phải con người quan hệ tình dục không có nghĩa là xu hướng tính dục của phụ nữ bao gồm loại hứng thú tình dục này. Một số nhà nghiên cứu cho rằng xu hướng tính dục của phụ nữ ít phụ thuộc vào các kiểu hưng phấn tình dục của họ hơn so với nam giới và các thành phần khác của xu hướng tính dục (như gắn kết tình cảm) phải được tính đến khi mô tả xu hướng tính dục của phụ nữ. Ngược lại, xu hướng tính dục của nam giới có xu hướng chủ yếu tập trung vào yếu tố vật lý của sự hấp dẫn và do đó, cảm xúc tình dục của họ có xu hướng phụ thuộc nhiều hơn vào giới tính.

Gần đây hơn,[mơ hồ] các nhà khoa học đã bắt đầu tập trung vào việc đo lường những thay đổi trong hoạt động của não liên quan đến hưng phấn tình dục bằng cách sử dụng kỹ thuật quét não. Một nghiên cứu về cách bộ não của nam giới dị tính và đồng tính phản ứng khi nhìn thấy hình ảnh của đàn ông và phụ nữ khỏa thân cho thấy[112] cả nam giới dị tính và đồng tính đều phản ứng tích cực khi nhìn thấy giới tính ưa thích của họ, sử dụng cùng một vùng não. Sự khác biệt nhóm đáng kể duy nhất giữa các xu hướng này được tìm thấy ở hạch hạnh nhân amygdala, một vùng não được biết là có liên quan đến việc điều chỉnh nỗi sợ.[113]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Xu_hướng_tính_dục http://wwwsshe.murdoch.edu.au/intersections/issue6... http://www.scielo.br/scielo.php?script=sci_abstrac... http://www.cnn.com/2004/TECH/science/10/14/asexual... http://www.findarticles.com/p/articles/mi_m0341/is... http://narth.com/menus/mission.html http://www.narth.com/docs/normalization.html http://www.pittsburghlive.com/x/pittsburghtrib/new... http://psychologytoday.com/articles/pto-19990301-0... http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S... http://www.scientistsolutions.com/t27233-new+state...